Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Chia sẻ vấn đề: Tìm lời giải

Chính trong lúc lạm phát như hiện nay, thì tình trạng giảm phát đang hiển hiện rõ hơn. TS. Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng, giá chi phí đầu vào của DN rất cao đã tác động đến đầu ra, dẫn đến giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ tăng 14,2% so với cùng kỳ 2010, trong khi GDP trong lĩnh vực này chỉ tăng 6,6%.
Đầu tư công - nguyên nhân của nguyên nhân
Ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ
Không bàn nhiều đến tác nhân ngân hàng, chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn có cái nhìn mở rộng. Ông cho rằng, Việt Nam đang cùng lúc phải đón nhận hai thực tế: lạm phát và giảm phát.
Hiện các quốc gia khác cũng có lạm phát, nhưng mức độ của họ thấp hơn nhiều so với Việt Nam. Trong nhiều năm, đầu tư công cũng như ngân sách của Việt Nam chiếm trên 5% GDP, có lúc lên tới 7 - 8% GDP. Đây chính là nguyên nhân tiên phong gây ra lạm phát.
Khi đầu tư công không hiệu quả, thì lượng tiền khổng lồ đó sinh ra làm mất cân đối với lượng hàng hóa. Trong thời gian dài như vậy, áp lực của đầu tư công về lạm phát là rất lớn.
Ông Sơn lý giải thêm, ngay khi lúc ban hành NQ 11 cũng là lúc Chính phủ đưa ra chính sách điều chỉnh giá xăng dầu, điện, đã tạo ra một sự tăng giá, chứ không phải hoàn toàn do tác động từ tăng trưởng tín dụng quá nhiều. Đây là sự tăng giá theo thị trường.
Cộng vào đó, một thời gian khá dài, tín dụng dồn cho BĐS và chứng khoán cũng đã tạo ra áp lực mất giá đồng tiền. Sự gia tăng thu nhập của nhà đầu tư hai ngành này là do sự chênh lệch giá, tức là sự gia tăng giá trị của vật chất không nhiều, nhưng chênh lệch giá rất lớn, tạo ra sự gia tăng trên tổng cầu của nền kinh tế.
Chính trong lúc lạm phát như hiện nay, thì tình trạng giảm phát đang hiển hiện rõ hơn. TS. Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng, giá chi phí đầu vào của DN rất cao đã tác động đến đầu ra, dẫn đến giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ tăng 14,2% so với cùng kỳ 2010, trong khi GDP trong lĩnh vực này chỉ tăng 6,6%.
Cộng vào đó, thị trường tiêu thụ khó từ khâu đầu, giữa, đến khâu cuối. Biểu hiện cao nhất là tồn kho quốc gia cao, tới 14,6% so với 2010, có ngành rất cao, như ngành gỗ tồn kho tới 45,6%, đồ uống không cồn 49,5%, cáp điện và dây điện 79%...
Tổng doanh số bán lẻ, tốc độ tăng kém, chỉ 7,5%. Điều này cũng dễ hiểu, bởi người dân đang dùng 60% thu nhập cho lương thực, thực phẩm, 40% còn lại là dùng cho mặt hàng thiết yếu.
TS. Đinh Thế Hiển cũng đồng tình lý giải đầu tư công gây lạm phát. Ông cho rằng, chỉ số CPI tăng là do tiền - hàng không tương xứng. Chính phủ đã để đầu tư công tăng quá mạnh trong những năm qua, tương đương 17% GDP, trong khi một nước trong khu vực như Indonesia chỉ 12%.
Còn về hiệu quả từ tín dụng, trong khi Việt Nam bỏ ra 6 đồng tín dụng mới ra được 1 đồng GDP, thì Indonesia bỏ ra 2 đồng tín dụng thu về 1 đồng GDP. Năm nay, Chính phủ siết tín dụng dưới 20%, dư địa vẫn là 3,5 đồng tín dụng cho ra 1 đồng GDP, tức vẫn cao gấp đôi khu vực.
Siết có chọn lọc
Cách đây hai tuần lễ, ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, ra Hà Nội dự một diễn đàn doanh nghiệp. Tại đây, ông Hạnh đã trao đổi với Phó thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, và đề nghị NHNN siết chặt tín dụng nhưng cũng có mức độ, đừng có cào bằng.
Ông Phó thống đốc cho rằng DN các anh muốn đầu tư thì phải có 40% vốn, huy động 30% vốn xã hội, còn lại vay vốn ngân hàng. Với mức khống chế lãi suất 17-18%/năm, có cảm giác DN chịu đựng được.
Ông Hạnh trả lời: với cơ cấu bền vững, DN phải có 60% vốn, còn lại là đi vay. Nhưng với tình hình như lúc này, tỷ lệ đó đã đi ngược lại, đa số DN Việt Nam thuộc dạng vừa và nhỏ nên sức chịu đựng cũng có giới hạn. Vì vậy, NHNN siết có mức độ, vì nếu sau khi đã bình ổn nền kinh tế, sẽ có nhiều DN không tồn tại.
Vì vậy, Chính phủ phải nuôi dưỡng nguồn thu, tức là đóng thuế của DN, song song với biện pháp kiềm chế lạm phát, đặc biệt là các DN xuất khẩu, thì mới có ngoại tệ thu về để cân đối cán cân ngoại tệ. Còn cứ duy trì mức lãi suất 17-18%, thì NHNN đang mất kiểm soát, lãi suất đang tới mức 26-27%.
TS. Lê Thẩm Dương đưa ra quan điểm: lạm phát vẫn phải chống, nhưng không được bóp nghẹt DN. “Tôi đồng ý với quyết định tăng trưởng tín dụng không quá 20%, vì IMF còn khuyên Việt Nam đừng để tăng trưởng dưới 15%, nhưng chất lượng tăng như thế nào mới là quan trọng.
NHNN nên nắn dòng tiền cho các DN được ưu tiên, có dự án tốt. Thực tế, với hạn mức tăng trưởng 20%, các ngân hàng có tiền cho DN vay, nhưng chính vì không nắn dòng tiền đi đúng hướng, nên mới không hiệu quả”, TS. Thẩm Dương nhận định.
TS. Thẩm Dương cũng cho rằng, với quyết định tăng trưởng tín dụng dành cho phi sản xuất phải giảm xuống 22% trong cuối tháng 6 và 16% vào cuối năm, con số này mà giao đồng đều cho các ngân hàng thì không phù hợp.
Bởi có những ngân hàng cho vay bất động sản (BĐS) vào thời điểm đầu năm có khi lên tới 55% dư nợ, nay bắt duy trì mức vay 22% và 16% vào cuối năm thì là quá ép.
Do đó cần phải phân loại mức phần trăm cho từng ngân hàng. Ngoài ra, để hạn chế tín dụng BĐS, Chính phủ cần có những luật định chống đầu cơ. Một khi hạn chế được tình trạng đầư cơ BĐS, tín dụng BĐS cũng sẽ hạ nhiệt.
TS. Đinh Thế Hiển thì cho rằng, Chính phủ phải đưa vốn về cho sản xuất, không nên đưa tiền về các lĩnh vực đầu tư vốn dài, không tạo ra hàng hóa ngay.
Việc Chính phủ siết tín dụng BĐS là đúng, nhưng đồng thời phải chuyển dòng vốn ra cho tiêu dùng cá nhân và cho DN nhỏ và vừa. Thật ra ngân hàng cũng muốn cho các DN vừa và nhỏ vay, nhưng khó ở chỗ họ khó thẩm định được năng lực của DN.
Ông Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP.HCM: Phải “mổ” mới biết
- Theo tôi, thời gian qua, Chính phủ đã dùng quá nhiều biện pháp hành chính. Mối quan hệ giữa nhà nước với DN là mối quan hệ nhân quả, nếu dùng biện pháp hành chính nhiều quá sẽ phát sinh hậu quả lâu dài, làm rối quy luật kinh tế.
Dường như các biện pháp giải quyết khó khăn hiện nay mang tính “chống” nhiều hơn là “xây”. Trước hết, Chính phủ phải giải quyết được chuyện vốn và lãi suất cho DN. Chuyện này cũng giống như căn bệnh ung thư, phải mổ thì mới biết là thế nào.
Chuyên gia Huỳnh Bửu Sơn: Phải có biện pháp đi trước để tránh tình trạng xấu nhất
- Việt Nam phải đương đầu trước mắt với sự trì trệ khá đặc biệt. Trong tình hình lạm phát, hàng hóa bán tháo nhưng lại không có người mua. Sự trì trệ này diễn ra trong hoàn cảnh giá cả hàng hóa tiếp tục gia tăng.
Nếu ai đó nói rằng có biện pháp kéo giá xuống là điều không tưởng. Chúng ta tiếp tục phải chấp nhận mặt bằng giá này. Kỳ vọng tốt nhất trong tương lai chỉ là sự thay đổi mức giá sẽ là không nhiều. Ví dụ như giá xăng hiện 21.000 đồng/lít, hy vọng sắp tới giá chỉ tăng 21.200, hay 21.500 đồng/lít.
Nói đến lãi suất, chúng ta phải đặt ra câu hỏi liệu đây là con đường đi của NHNN hay là NHNN đi theo các ngân hàng thương mại? Rõ ràng hệ thống ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động trước khi NHNN điều chỉnh mức lãi suất cơ bản.
Ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động vì nhu cầu thanh khoản rất lớn, vì có sự bất động nguồn vốn rất lớn trong các lĩnh vực như BĐS. Đây không phải là một vấn đề nhỏ. Nếu không có giải pháp cho chuyện này, dù cho NHNN không hạn chế mức tăng trưởng tín dụng 20%, thì cũng không có ngân hàng nào đủ sức tăng trưởng ở mức đó.
Vì vậy, nếu không giải quyết được sự bất động nguồn vốn của ngân hàng, như BĐS, chứng khoán thế chấp, thì DN sẽ tiếp tục phải chịu đựng cảnh “uống thuốc độc để giải khát”, tức là tiếp tục duy trì các đồng vốn nằm trong ngân hàng, rồi các NH duy trì lãi suất cao như vậy, người gửi cứ tiếp tục gửi tiền vào, tạo ra sự cạnh tranh hút vốn của các ngân hàng.
Giả sử, kinh tế khó khăn, thất nghiệp, người gửi tiết kiệm buộc phải rút tiền đồng loạt, lúc đó các ngân hàng sẽ xoay xở ra sao? Phải có biện pháp đi trước để tránh tình trạng xấu nhất có thể xảy ra.
Chuyên gia Lương Văn Lý: Phải tạo điều kiện vốn cho một số ngành
Đầu tư công hiện vẫn là việc mà Chính phủ cần phải giải quyết triệt để. Hiện tổng mức nợ của 81 tập đoàn, công ty nhà nước tương đương 54,2% GDP, và khu vực này chiếm không dưới 60% tổng tín dụng nợ nội địa tăng lên của toàn nền kinh tế.
Riêng chuyện siết chặt tín dụng là đúng, nhưng phải phân cân, đừng có cào bằng. Phải tạo điều kiện vốn cho một số ngành như hạ tầng kỹ thuật, sản xuất công nghiệp phụ trợ... để phù hợp với bối cảnh nền kinh tế hiện nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét