Chính trong lúc lạm phát như hiện nay, thì tình trạng giảm phát đang hiển hiện rõ hơn. TS. Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng, giá chi phí đầu vào của DN rất cao đã tác động đến đầu ra, dẫn đến giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ tăng 14,2% so với cùng kỳ 2010, trong khi GDP trong lĩnh vực này chỉ tăng 6,6%.
Đầu tư công - nguyên nhân của nguyên nhân
Ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ |
Không bàn nhiều đến tác nhân ngân hàng, chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn có cái nhìn mở rộng. Ông cho rằng, Việt Nam đang cùng lúc phải đón nhận hai thực tế: lạm phát và giảm phát.
Hiện các quốc gia khác cũng có lạm phát, nhưng mức độ của họ thấp hơn nhiều so với Việt Nam. Trong nhiều năm, đầu tư công cũng như ngân sách của Việt Nam chiếm trên 5% GDP, có lúc lên tới 7 - 8% GDP. Đây chính là nguyên nhân tiên phong gây ra lạm phát.
Khi đầu tư công không hiệu quả, thì lượng tiền khổng lồ đó sinh ra làm mất cân đối với lượng hàng hóa. Trong thời gian dài như vậy, áp lực của đầu tư công về lạm phát là rất lớn.
Ông Sơn lý giải thêm, ngay khi lúc ban hành NQ 11 cũng là lúc Chính phủ đưa ra chính sách điều chỉnh giá xăng dầu, điện, đã tạo ra một sự tăng giá, chứ không phải hoàn toàn do tác động từ tăng trưởng tín dụng quá nhiều. Đây là sự tăng giá theo thị trường.
Cộng vào đó, một thời gian khá dài, tín dụng dồn cho BĐS và chứng khoán cũng đã tạo ra áp lực mất giá đồng tiền. Sự gia tăng thu nhập của nhà đầu tư hai ngành này là do sự chênh lệch giá, tức là sự gia tăng giá trị của vật chất không nhiều, nhưng chênh lệch giá rất lớn, tạo ra sự gia tăng trên tổng cầu của nền kinh tế.
Chính trong lúc lạm phát như hiện nay, thì tình trạng giảm phát đang hiển hiện rõ hơn. TS. Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng, giá chi phí đầu vào của DN rất cao đã tác động đến đầu ra, dẫn đến giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ tăng 14,2% so với cùng kỳ 2010, trong khi GDP trong lĩnh vực này chỉ tăng 6,6%.
Cộng vào đó, thị trường tiêu thụ khó từ khâu đầu, giữa, đến khâu cuối. Biểu hiện cao nhất là tồn kho quốc gia cao, tới 14,6% so với 2010, có ngành rất cao, như ngành gỗ tồn kho tới 45,6%, đồ uống không cồn 49,5%, cáp điện và dây điện 79%...
Tổng doanh số bán lẻ, tốc độ tăng kém, chỉ 7,5%. Điều này cũng dễ hiểu, bởi người dân đang dùng 60% thu nhập cho lương thực, thực phẩm, 40% còn lại là dùng cho mặt hàng thiết yếu.
TS. Đinh Thế Hiển cũng đồng tình lý giải đầu tư công gây lạm phát. Ông cho rằng, chỉ số CPI tăng là do tiền - hàng không tương xứng. Chính phủ đã để đầu tư công tăng quá mạnh trong những năm qua, tương đương 17% GDP, trong khi một nước trong khu vực như Indonesia chỉ 12%.
Còn về hiệu quả từ tín dụng, trong khi Việt Nam bỏ ra 6 đồng tín dụng mới ra được 1 đồng GDP, thì Indonesia bỏ ra 2 đồng tín dụng thu về 1 đồng GDP. Năm nay, Chính phủ siết tín dụng dưới 20%, dư địa vẫn là 3,5 đồng tín dụng cho ra 1 đồng GDP, tức vẫn cao gấp đôi khu vực.
Siết có chọn lọc
Cách đây hai tuần lễ, ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, ra Hà Nội dự một diễn đàn doanh nghiệp. Tại đây, ông Hạnh đã trao đổi với Phó thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, và đề nghị NHNN siết chặt tín dụng nhưng cũng có mức độ, đừng có cào bằng.
Ông Phó thống đốc cho rằng DN các anh muốn đầu tư thì phải có 40% vốn, huy động 30% vốn xã hội, còn lại vay vốn ngân hàng. Với mức khống chế lãi suất 17-18%/năm, có cảm giác DN chịu đựng được.
Ông Hạnh trả lời: với cơ cấu bền vững, DN phải có 60% vốn, còn lại là đi vay. Nhưng với tình hình như lúc này, tỷ lệ đó đã đi ngược lại, đa số DN Việt Nam thuộc dạng vừa và nhỏ nên sức chịu đựng cũng có giới hạn. Vì vậy, NHNN siết có mức độ, vì nếu sau khi đã bình ổn nền kinh tế, sẽ có nhiều DN không tồn tại.
Vì vậy, Chính phủ phải nuôi dưỡng nguồn thu, tức là đóng thuế của DN, song song với biện pháp kiềm chế lạm phát, đặc biệt là các DN xuất khẩu, thì mới có ngoại tệ thu về để cân đối cán cân ngoại tệ. Còn cứ duy trì mức lãi suất 17-18%, thì NHNN đang mất kiểm soát, lãi suất đang tới mức 26-27%.
TS. Lê Thẩm Dương đưa ra quan điểm: lạm phát vẫn phải chống, nhưng không được bóp nghẹt DN. “Tôi đồng ý với quyết định tăng trưởng tín dụng không quá 20%, vì IMF còn khuyên Việt Nam đừng để tăng trưởng dưới 15%, nhưng chất lượng tăng như thế nào mới là quan trọng.
NHNN nên nắn dòng tiền cho các DN được ưu tiên, có dự án tốt. Thực tế, với hạn mức tăng trưởng 20%, các ngân hàng có tiền cho DN vay, nhưng chính vì không nắn dòng tiền đi đúng hướng, nên mới không hiệu quả”, TS. Thẩm Dương nhận định.
TS. Thẩm Dương cũng cho rằng, với quyết định tăng trưởng tín dụng dành cho phi sản xuất phải giảm xuống 22% trong cuối tháng 6 và 16% vào cuối năm, con số này mà giao đồng đều cho các ngân hàng thì không phù hợp.
Bởi có những ngân hàng cho vay bất động sản (BĐS) vào thời điểm đầu năm có khi lên tới 55% dư nợ, nay bắt duy trì mức vay 22% và 16% vào cuối năm thì là quá ép.
Do đó cần phải phân loại mức phần trăm cho từng ngân hàng. Ngoài ra, để hạn chế tín dụng BĐS, Chính phủ cần có những luật định chống đầu cơ. Một khi hạn chế được tình trạng đầư cơ BĐS, tín dụng BĐS cũng sẽ hạ nhiệt.
TS. Đinh Thế Hiển thì cho rằng, Chính phủ phải đưa vốn về cho sản xuất, không nên đưa tiền về các lĩnh vực đầu tư vốn dài, không tạo ra hàng hóa ngay.
Việc Chính phủ siết tín dụng BĐS là đúng, nhưng đồng thời phải chuyển dòng vốn ra cho tiêu dùng cá nhân và cho DN nhỏ và vừa. Thật ra ngân hàng cũng muốn cho các DN vừa và nhỏ vay, nhưng khó ở chỗ họ khó thẩm định được năng lực của DN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét