Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Chia sẻ cùng bạn doanh nghiệp sản xuất: "Hai không"

Trước đây, nhiều DN có hạn mức tín dụng khoảng 20 tỷ đồng, thì nay NH vẫn cấp khoảng 1/3 số tín dụng của năm trước. Nhưng nghịch lý là NH “năn nỉ” kêu DN đến lấy tiền mà không DN nào “dám đến” vì sợ không trả nổi lãi vay. Thực vậy, như trường hợp của ông Trương Hồ Long, Giám đốc Công ty CP Đồng Phát đã tự thực hiện chế độ cho công nhân đi làm 2/3 thời gian so với bình thường, nhằm cắt giảm chi phí.
Vốn không dám vay
Quả thực, lãi suất của các NH đối với sản xuất kinh doanh đã lên tới mức 23 - 25%/năm khiến nhiều DN lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Nếu vay vốn sản xuất thì cầm chắc lỗ, còn không thì phải thu hẹp sản xuất.
Ít DN có khả năng xoay xở với mức lãi suất 24-25%/năm - Ảnh: Quý Hòa
Một phó tổng giám đốc một NH cổ phần nói rằng, mặc dù bị hạn chế tăng trưởng tín dụng nhưng nhiều NH vẫn tìm cách để cho vay, vì cho vay được thì NH mới có lợi nhuận. Thậm chí, một số NH muốn giải ngân đã không ngần ngại đưa vốn của mình thông qua các công ty con như công ty tài chính, công ty chứng khoán để mua trái phiếu do các DN phát hành với lãi suất cao, như một dạng cấp tín dụng.
Thừa nhận điều này là đúng, bà Nguyễn Thị Mỹ Linh, Tổng thư ký Hội Doanh nghiệp Bình Chánh, thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA), nói rằng, các thành viên trong Hội không dám vay vốn NH vì lãi suất cao quá.
Trước đây, nhiều DN có hạn mức tín dụng khoảng 20 tỷ đồng, thì nay NH vẫn cấp khoảng 1/3 số tín dụng của năm trước. Nhưng nghịch lý là NH “năn nỉ” kêu DN đến lấy tiền mà không DN nào “dám đến” vì sợ không trả nổi lãi vay. Thực vậy, như trường hợp của ông Trương Hồ Long, Giám đốc Công ty CP Đồng Phát đã tự thực hiện chế độ cho công nhân đi làm 2/3 thời gian so với bình thường, nhằm cắt giảm chi phí.
“Số tiền vay với lãi suất 19,5%/năm thì DN cùng lắm chỉ cầm cự được ba tháng, còn nếu vay với lãi suất 24 - 25% như hiện nay thì tôi chỉ có cách đóng cửa nhà máy và cho công nhân nghỉ”, ông Long nói.
Khó không dám than?
Như vậy, mấu chốt của vấn đề hiện nay không phải chuyện DN không vay được vốn NH mà là chuyện DN không dám vay. Tình trạng này đang quay trở lại thời kỳ kinh tế đầu năm 2008, khi mà DN không có đầu ra, bị cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc, lãi suất vay NH cao ngất ngưởng khiến họ chới với và phải thu hẹp sản xuất.
“Trên thực tế là hàng hóa của các DN sản xuất trong nước đang bị hàng Trung Quốc cạnh tranh về giá rất gắt gao. Chẳng hạn, thép của Việt Nam bán 18.000/kg thì giá thép của Trung Quốc chỉ khoảng 13.000 đồng/kg. Họ bất chấp bán rẻ để mang tiền về tất toán thay vì phải vay NH. Điều này đang đẩy các DN trong nước vào chân tường.
Một điểm khác là một số DN trong nước lại bắt chước áp dụng mô hình này của các DN Trung Quốc là bán đổ bán tháo hàng tồn kho để mang tiền về tất toán, thu hẹp sản xuất thay cho việc vay vốn NH. Từ đó khiến tình hình sản xuất đi vào bế tắc, thậm chí chỉ vài tháng nữa sẽ có hiện tượng phá sản đồng loạt tại các DN sản xuất nhỏ và vừa”, bà Linh nói.
Tương tự, ông Nguyễn Văn Khánh, Tổng thư ký Hiệp hội Da Giày TP.HCM, nói rằng, sau 5 năm, các DN da giày vừa hết bị đánh thuế chống bán phá giá của EU, đang hăm hở tính kế hoạch mở rộng sản xuất - kinh doanh thì gặp phải lãi suất tăng quá cao. Các DN trong Hội đã bỏ hết ý định mở rộng sản xuất, co cụm sản xuất để chờ đợi thị trường.
Có một điểm ngạc nhiên thú vị là trong thời điểm khó khăn là vậy nhưng phần lớn DN đều không kêu than nhiều như những năm trước. Điều này được chính Phó chủ tịch HUBA và các Tổng thư ký các hội DN quận, huyện thừa nhận khi khảo sát các DN thành viên.
Theo phản ánh, nguyên nhân của sự “rụt rè” này là các DN sợ các NH cắt luôn khoản ưu đãi khi tình hình kinh tế ổn định trở lại. Đại diện một DN sản xuất dây và cáp điện gia dụng bức xúc phản ánh, hiện tại việc sản xuất của các DN thành viên vẫn chạy khá tốt, thậm chí nhiều lúc các DN này không có đủ hàng để xuất sang Lào và Campuchia.
Vấn đề mà DN này gặp phải không chỉ chuyện lãi suất mà còn cả chuyện mua bán USD. Tuy nhiên, khi ông Phạm Ngọc Hưng, Phó chủ tịch thường trực HUBA đề nghị phản ảnh việc mua USD khó khăn để trình lên UBND TP.HCM xin được hỗ trợ giải quyết, thì DN lại không dám nói.
“Rất sợ ra mặt kêu than vì bị cắt luôn khoản ưu đãi còn lại từ phía các NH”, một DN đề nghị giấu tên nói. Tương tự, bà Linh nói rằng DN thành viên của Hội gặp nhiều khó khăn nhưng khi đề nghị phải lên tiếng để tìm sự hỗ trợ từ UBND TP.HCM thì các DN đều “xin thôi” và nói rằng “tự mình có thể xoay xở được”. 

Tìm hiểu việc: Thất hẹn trời xanh

Tương tự, Công ty CP Hàng không Đông Dương (Indochina Airlines) có giấy phép từ tháng 5/2008, nhưng chỉ sau 5 tháng hoạt động, kết quả kinh doanh của hãng không suôn sẻ và phải đối mặt với khoản nợ chồng chất, nên tháng 11/2009, hãng bay này đã “hạ cánh” và đang nỗ lực tái cơ cấu, xin gia hạn giấy phép đến 31/12/2011. Song, theo đánh giá của giới chuyên ngành, khả năng hồi phục của Indochina Airline dường như rất mong manh.
Dự báo của Hiệp hội Vận chuyển Hàng không Quốc tế thì thị trường hàng không Việt Nam tăng trưởng 7,7%/năm trong giai đoạn 2007 - 2011, nhưng thực tế đã tăng trưởng ở mức trên 15%/năm. Tuy nhiều triển vọng nhưng khi gia nhập lĩnh vực này, hầu hết các hãng bay tư nhân đều rất khó cất cánh hoặc chưa thể “bay cao, bay xa” như mong muốn.
Bay rụt rè, cất cánh mong manh
Tiếp viên Jetstar
Thông tin từ Vietnam Airline (VNA): “Hiện, nhu cầu vận chuyển đường hàng không tại Việt Nam rất lớn, mỗi ngày VNA đã có 300 chuyến bay, đồng thời tăng tải các đường bay nội địa lên 60 - 70% nhưng vẫn không đáp ứng nhu cầu”.
Trong khi đó, dù đã tham gia thị trường nhưng hầu hết các hãng hàng không tư nhân đều đang gặp khó khăn, cả khách quan lẫn chủ quan, khiến giấc mơ bay của các hãng này vẫn chưa thành hiện thực.
Bà Anoa Dussol Perran, Chủ tịch HĐQT Công ty CP du lịch An Hoa, cho biết:
“Khi đầu tư vào Việt Nam, tôi thấy dịch vụ taxi bay rất có triển vọng và thị trường này cũng chưa ai khai thác. Vì vậy, tôi đã liên doanh với VASCO, chi nhánh của Cục hàng không Việt Nam Airline để thành lập dịch vụ bay taxi, nhưng sau thời gian đổ rất nhiều công sức, tiền của để đầu tư, cuối cùng dự án không thực hiện được và tôi đã mất một số tiền khá lớn”.
Được cấp phép hoạt động vào tháng 12/2007 với số vốn ban đầu là 600 tỷ đồng, VietJetAir là hãng hàng không cổ phần đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam được phép khai thác cả tuyến bay quốc nội và quốc tế.
Theo kế hoạch, VietJetAir sẽ cất cánh vào cuối năm 2008. Nhưng đến thời hạn, hãng này lại xin lùi tới tháng 3/2009 và đến nay VietJetAir vẫn chỉ “bay” trên giấy. Đến thời điểm này, giấy phép của hãng này cũng đã hết hiệu lực và mặc dù lại xin gia hạn đến hết tháng 6/2011 nhưng hiện tại vẫn chưa thấy VietJet “rục rịch” gì.
Tương tự, Công ty CP Hàng không Đông Dương (Indochina Airlines) có giấy phép từ tháng 5/2008, nhưng chỉ sau 5 tháng hoạt động, kết quả kinh doanh của hãng không suôn sẻ và phải đối mặt với khoản nợ chồng chất, nên tháng 11/2009, hãng bay này đã “hạ cánh” và đang nỗ lực tái cơ cấu, xin gia hạn giấy phép đến 31/12/2011. Song, theo đánh giá của giới chuyên ngành, khả năng hồi phục của Indochina Airline dường như rất mong manh.
Tuy chọn phân khúc vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không để tránh áp lực cạnh tranh và đại diện Trãi Thiên cũng tự tin tuyên bố: “Tập đoàn đã chuẩn bị vốn và các điều kiện bay trong suốt 2 năm, sẵn sàng vượt qua thử thách trong hai năm đầu.
Nhưng chỉ sau một năm cấp phép hoạt động (tháng 10/2009), Trãi Thiên vẫn chưa có động thái nào cất cánh, và thêm ba lần “thất hẹn”, hãng bay này đành công bố “tạm ngưng” kế hoạch bay vì đang lâm vào khó khăn tài chính. Đến nay Trãi Thiên cũng chưa thể chứng minh khả năng cất cánh trong thời gian gần nhất.
Hiếm hoi chỉ có Air Mekong là làm ăn được. Dù được cấp phép muộn hơn và mới chỉ đi vào hoạt động từ ngày 10/10/2010 nhưng hiện công ty đã có 4 máy bay Bombardier CRJ900 hoạt động trên 14 đường bay nội địa. Công ty này cũng đang có kế hoạch nhận tiếp 2 máy bay mới vào tháng 6/2011 và 4 máy bay khác vào tháng 10/2011.
Rát mặt vì giá, đổ nợ vì xăng
VnPost phân phối vé máy bay Air Mekong qua mạng lưới bưu chính
Lý giải sự chậm trễ trong việc thực hiện kế hoạch bay, đại diện VietJetAir cho rằng: “Có rất nhiều khó khăn cả về khách quan lẫn chủ quan, trong đó, việc Bộ Giao thông - Vận tải không chấp nhận máy bay của liên doanh VietJetAir với AirAsia (Malaysia) để logo của AirAsia, cũng là nguyên nhân làm trì hoãn kế hoạch bay của VietjetAir.
Bên cạnh đó, một khó khăn khác là hiện nay VietJetAir vẫn chưa có chứng chỉ nhà khai thác tàu bay AOC để có thể triển khai bay nội địa và quốc tế, dù hãng này đã làm thủ tục cấp phép từ năm 2009.
Những hãng bay “nằm chờ”
- Công ty CP Hàng không Đông Dương (VP): Được cấp phép từ tháng 5/2008, nhưng đã phải tạm ngừng hoạt động từ tháng 10/2009. Sau nhiều lần bị “nhắc nhở”, ngày 31/12/2010, VP đã có văn bản gửi Bộ Giao thông - Vận tải đề nghị được gia hạn giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không đến hết ngày 31/12/2011.
- Công ty CP Hàng không VietJet: Dù được cấp phép từ cuối năm 2007, nhưng đến nay vẫn chưa khai thác vẫn chuyển. Bộ Giao thông - Vận tải kiến nghị cho gia hạn giấy phép kinh doanh hàng không đến hết ngày 30/6/2011.
Công ty CP Hàng không Ngôi Sao Việt:Theo lộ trình cấp giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không đã được Chính phủ phê duyệt thì công ty này chỉ có thể được cấp giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không chung vào năm 2012.
Công ty CP Hàng không Jetstar Pacific Airlines (JPA): Bộ Giao thông - Vận tải đã đề xuất Chính phủ chấp thuận gia hạn giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không cho công ty này đến hết ngày 31/12/2012.
Điểm qua các hãng hàng không tư nhân tại Việt Nam, có thể nhận rõ, việc đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực này không sáng sủa.
Mặc dù chiếm tới 80% thị phần đường bay nội địa, nhưng trong hội nghị tổng kết công tác năm 2010 của Bộ Giao thông Vận tải, ông Phạm Ngọc Minh, Tổng giám đốc VNA, cũng cho biết:
“Chính sách giá trần nội địa chưa phù hợp với quá trình điều chỉnh tỷ giá khiến VNA phải bù lỗ 30 triệu USD cho mạng đường bay nội địa năm 2010.
Bên cạnh đó, việc thiếu hụt cơ sở hạ tầng sân bay như sân đỗ chờ qua đêm, sân đỗ trước hangar bảo dưỡng, các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ và khu nhiên liệu cũng đang làm hạn chế khả năng mở rộng quy mô kinh doanh”.
Tương tự, năm 2010, chi phí xăng dầu của JPA đã tăng thêm đến 300 tỷ đồng do giá xăng dầu liên tục tăng, chênh lệch tỷ giá giữa USD/VND cũng làm tăng chi phí của hãng thêm khoảng 160 tỷ đồng.
Và đến thời điểm hiện tại, Jestar Pacific vẫn còn nợ Công ty Kinh doanh xăng dầu Hàng không 173 tỷ đồng tiền nhiên liệu quá hạn thanh toán và hãng này phải khẩn trương thu xếp các nguồn lực tài chính để trang trải các khoản nợ này.
Ông Lê Song Lai, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Jestar Pacific, cho rằng: “Nguyên nhân nhiều hãng hàng không tư nhân hoạt động chưa hiệu quả là do chi phí đầu vào hiện nay quá lớn và liên tục biến động, trong khi đầu ra đang được kiểm soát rất chặt.
Cụ thể là trong năm 2010, giá nhiên liệu trung bình tăng khoảng 20%, tỷ giá thực tế tăng 12%, các chi phí khác như tiền lương phi công, phí phục vụ mặt đất, phí bảo dưỡng máy bay định kỳ đều tăng do yếu tố lạm phát...
Trong khi đó, trong suốt khoảng thời gian từ 1/4/2010 - 22/4/2011, giá trần vé máy bay không được phép điều chỉnh theo biến động của thị trường.
Việc tiếp tục duy trì giá trần trên các đường bay cạnh tranh (tức là đường bay có sự phục vụ của ít nhất 2 hãng hàng không trở lên) đang là một trở ngại lớn cần phải nhanh chóng khắc phục trong thời gian sớm nhất.
Ông Trương Thanh Vũ, Giám đốc Dịch vụ thương mại Air Mekong, cũng cho biết: “Hầu hết các hãng hàng không của Việt Nam hiện nay chủ yếu khai thác các tuyến bay nội địa (trừ VNA), trong đó chưa có hãng hàng không tư nhân nào mở đường bay quốc tế.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là chi phí đầu vào quốc tế được bù đắp bằng doanh thu nội địa. Chính sự bất cân đối này đã dẫn đến những khó khăn cho hãng bay tư nhân”.
Bên cạnh đó, được biết, các chi phí đầu vào của các hãng, từ máy bay (kể cả mua và thuê) đều theo giá quốc tế, chưa kể xăng dầu cũng biến động theo giá thế giới và liên tục ở mức cao, nhân công có kỹ thuật cao đều phải thuê hoặc đào tạo từ nước ngoài, tỷ giá liên tục thay đổi theo hướng bất lợi cho các doanh nghiệp hàng không.
Trong khi đó, một số hãng bay lớn lại giảm giá dịch vụ khiến các hãng bay tư nhân mới ra đời còn “yếu sức” càng thêm khó khăn, bất lợi. Vừa qua, tuy Nhà nước có điều chỉnh giá trần cho các đường bay có vị thế độc quyền, song việc điều chỉnh này vẫn chưa thực sự hợp lý.
Nhiều đường bay đến các địa phương còn khoảng cách lớn giữa giá trần và chi phí, tính linh hoạt của doanh nghiệp trong giá cả gặp nhiều khó khăn do sự giới hạn của giá trần. 

Khám phá hành trình vén mây, tìm lối trên trời

Tương tự, VietJetAir cũng “tạo thế mạnh” bằng liên doanh với hãng hàng không giá rẻ AirAsia (Malaysia) theo tỷ lệ góp vốn của AirAsia là 30% và liên doanh này sẽ sử dụng tên VietjetAirAsia. Bên cạnh đó, AirAsia cũng có kế hoạch hợp tác với hàng không giá rẻ của Úc là Jestar, thành lập liên minh hàng không giá rẻ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Lách qua những đường bay hẹp
Thực tế, khi bước chân vào thị trường hàng không, hầu hết các hãng bay đều chọn phân khúc thị trường riêng. Chẳng hạn, Jestar Pacific chọn phân khúc khách hàng giá rẻ, Trãi Thiên chọn phân khúc dịch vụ vận chuyển hàng hóa, Blue Sky Air bay vận tải và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng bằng loại máy bay nhỏ và trực thăng.
Bên cạnh đó, hãng này còn cho thuê chuyến bay cấp cứu, phục vụ khách thương gia trong và ngoài nước, thời gian bay và địa điểm bay theo yêu cầu của khách hàng. Mới đây, Công ty CP Hàng không Ngôi Sao Việt cũng xin lập hãng hàng không, sử dụng máy bay cánh bằng để cung cấp dịch vụ air taxi.
Không chỉ chọn phân khúc riêng, để hạn chế rủi ro khi phải cạnh tranh với các hãng hàng không lớn trong nước, đồng thời tăng nội lực về vốn, nhân sự và kỹ thuật, một số hãng bay tư nhân đã chọn liên kết với các tập đoàn hàng không lớn ở nước ngoài.
Theo phân tích của các hãng hàng không, các hãng hàng không nhỏ trong nước rất khó cạnh tranh được với doanh nghiệp lớn nếu không bắt tay với các tập đoàn mạnh thế giới.
Ông Hà Hùng Dũng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Indochina Airlines, thừa nhận: “Do đội ngũ nhân sự yếu, nội lực có hạn, lại chọn con đường cạnh tranh với “ông lớn” VNA nên Indochina Airline rơi vào tình cảnh khó chồng khó, dẫn đến thua lỗ nặng”.
Có lẽ nhìn thấy trước bài học thất bại từ Indochina Airlines, tháng 4/2008, Pacific Airlines đã chính thức hợp tác với Hãng Hàng không Jestar Airways (Úc) thành liên doanh Jestar Pacific.
Tương tự, VietJetAir cũng “tạo thế mạnh” bằng liên doanh với hãng hàng không giá rẻ AirAsia (Malaysia) theo tỷ lệ góp vốn của AirAsia là 30% và liên doanh này sẽ sử dụng tên VietjetAirAsia. Bên cạnh đó, AirAsia cũng có kế hoạch hợp tác với hàng không giá rẻ của Úc là Jestar, thành lập liên minh hàng không giá rẻ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tuy đến thời điểm này được đánh giá đang hoạt động với chiều hướng tốt, nhưng ông Trương Thanh Vũ, Giám đốc Dịch vụ thương mại Air Mekong, cũng cho biết:
“Vừa qua, Air Mekong cũng đã bán 30% cổ phần cho hãng hàng không American Sky West nhằm nâng cao nội lực, thực hiện chiến lược kinh doanh là tiếp tục hoàn thiện dịch vụ và phát triển mạng bay nội địa và tiến tới mở các đường bay quốc tế”.
Không thể bay với “đá tảng”
Bà Cindy Lam, Giám đốc Cathay Pacific Việt Nam, cho rằng: “Thị trường hàng không Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, nhưng vẫn còn một số điểm cải thiện để đạt được hiệu quả cao nhất.
Theo đó, Nhà nước cũng nên đưa ra những chính sách hỗ trợ ngắn hạn trong chi phí sân bay để giảm nhẹ áp lực cho các hãng bay, đồng thời nỗ lực hơn nữa trong việc giảm gánh nặng chi phí cho những đơn vị đang sử dụng những sân bay và không phận Việt Nam.
Bởi vì, đây sẽ là yếu tố tích cực tác động đến sự phát triển của thị trường hàng không, khuyến khích các hãng tăng tần suất chuyến bay, khiến thị trường này trở nên hấp dẫn hơn nữa đối với những nhà cung cấp dịch vụ mới”.
- Năm 2010: Tổng vận chuyển hành khách đạt trên 21 triệu lượt và 460 nghìn tấn hàng hóa, tăng tương ứng 20,5% và 31,5% so với năm 2009. Trong đó, các hãng hàng không Việt Nam vận chuyển 14,6 triệu khách và 188 nghìn tấn hàng hóa, tăng tương ứng 24% và 30% so với năm 2009.
- Theo dự báo của Hiệp hội Hàng không thế giới (IATA), vào năm 2014, Việt Nam sẽ trở thành thị trường vận chuyển hành khách, hàng hóa quốc tế phát triển thứ ba thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Brazil, còn thị trường vận chuyển hành khách nội địa chỉ sau Trung Quốc. Cũng theo nghiên cứu của tổ chức này, tại Việt Nam, trung bình mỗi tháng có thêm một máy bay.
Bà Cindy Lam cho biết thêm: “Theo dự báo của IATA, vào năm 2014, Việt Nam có thể sẽ trở thành thị trường vận chuyển hành khách và hàng hóa phát triển nhanh thứ ba trên thế giới. Nếu những cải tiến để tối ưu hóa ngành hàng không được áp dụng, tôi tin tưởng dự báo này sẽ thành hiện thực”.
Để đáp ứng nhu cầu đó, theo bà Cindy Lam, các hãng hàng không đã và đang tham gia tại Việt Nam cần làm vào lúc này chính là nhận định kỹ càng về nhu cầu trong tương lai, triển khai những nguồn lực bổ sung để hỗ trợ cho tình hình phát triển sắp tới.
Khi nền kinh tế càng phát triển, hành khách sẽ càng khắt khe trong chất lượng phục vụ. Vì vậy, để có thể dẫn đầu, các hãng hàng không bắt buộc phải đầu tư nhiều hơn nữa vào sản phẩm và dịch vụ.
Chia sẻ thêm những giải pháp tháo gỡ khó khăn để các hãng bay hoạt động hiệu quả, ông Vũ đề nghị:
“Các hãng hàng không nên tham gia vào khai thác dịch vụ tại sân bay, trước hết là tự cung ứng nhằm giảm giá thành, sau nữa là chủ động nâng cao dịch vụ chăm sóc khách hàng và cung cấp đa dạng dịch vụ cho nhiều đối tượng khách.
Nhà nước nên sớm cởi bỏ các giới hạn về giá trần cho các đường bay có từ hai hãng khai thác trở lên nhằm khuyến khích sự linh hoạt trong giá cả cũng như thúc đẩy sự cạnh tranh bằng dịch vụ đem lại giá trị cho khách hàng”.
Đồng tình kiến nghị này, ông Lai đề nghị thêm: “Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia còn duy trì cơ chế kiểm soát trần giá vé máy bay. Về chính sách thuế, đề nghị áp dụng thuế suất 0% đối với nhiên liệu máy bay”.
Cũng theo ông Lai, do xăng dầu hàng không chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng khối lượng xăng dầu nhập khẩu nên việc áp dụng thuế suất này không làm ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách nhà nước, trong khi đối với các hãng hàng không thì đây là một biện pháp hỗ trợ rất đáng kể vì đã có những thời điểm, thuế suất này được duy trì ở mức 25 - 30%.
Để hạn chế những tác động tiêu cực của biến động giá nhiên liệu và những chậm trễ trong việc điều chỉnh giá trần vé máy bay, đề nghị các cơ quan chức năng cho phép tự động áp dụng cơ chế phụ thu nhiên liệu, theo đó, mỗi khi giá dầu vượt quá 100 USD/thùng thì các hãng hàng không đương nhiên được áp dụng phụ thu với tỷ lệ nhất định.
Đại diện nhiều hãng hàng không cũng kiến nghị, để hạn chế tình trạng bay lệch đầu vào dịp Tết và một số ngày lễ lớn, đề nghị cho phép áp dụng phụ thu vào mùa cao điểm trong các tháng 6, 7, 8 và dịp Tết.
Về cơ chế cạnh tranh, đề nghị cơ quan chức năng kiểm tra, xác định rõ cơ cấu chi phí hoạt động thực tế của các hãng hàng không để đảm bảo rằng, các hãng đều không khai thác dưới giá thành hoạt động và không sử dụng các nguồn thu phí hàng không để bù lỗ cho kinh doanh vận tải hàng không, khiến cho các hãng nhỏ và mới gia nhập thị trường chịu nhiều bất lợi do không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn thu từ kinh doanh vận tải hàng không. 

Cùng tìm hiểu về lợi thế của Internet Marketing

Tại Việt Nam, khoảng 62% người sử dụng truy cập Internet mỗi ngày, và trung bình mỗi ngày họ dành khoảng 2 giờ 20 phút trên internet. Ở những thành phố lớn, người dân truy cập Internet thường xuyên hơn so với thành phố nhỏ. Theo báo cáo, người dùng ở Hà Nội dành hơn 160 phút mỗi ngày để truy cập Internet, cao hơn so với TP.HCM (dành 150 phút mỗi ngày để truy cập Internet).
Lợi ích của Internet Marketing (online marketing, digital marketing) hiện nay như thế nào? Ở Việt Nam lĩnh vực này phát triển ra sao? 
Theo thông báo số liệu phát triển Internet Việt Nam của trung tâm internet Việt Nam VNNIC tính đến tháng 1 năm 2011 Việt Nam có 27.194.870 người dùng Internet. Tỉ lệ dân số sử dụng Internet là 31.5%. Internet mới chỉ thực sự phát triển ở VN một vài năm trở lại đây. Hầu hết các học sinh ngày nay đều được học tin học, như vậy có thể tin chắc trong tương lai trên 90% dân số VN sẽ biết sử dụng internet.
Các kênh truyền thông như tivi hay báo in đang dần mất đi ưu thế khi bất kì một cái gì mọi người cũng có thể tìm thấy trên internet. Từ mua bán, giải trí, học tập… Vì vậy Internet Marketing sẽ là một lợi thế cho những ai biết nắm lấy cơ hội. Sản phẩm, dịch vụ của bạn sẽ được nhiều người biết đến chỉ với một click chuột. Bạn có thể tự tạo cho mình một cửa hàng Online mà không hề tốn một khoản chi phí nào, bạn có thể đưa sản phẩm, dịch vụ của mình đến với hàng triệu người tiêu dùng với một mức chi phí Internet Marketing nhỏ hơn nhiều lần so với các kênh truyền thông truyền thống.
Việt Nam: Người dùng internet tăng nhanh nhất khu vực
Theo báo cáo NetCitizens Việt Nam 2011 do hãng Cimigo vừa công bố, Việt Nam có khoảng 26,8 triệu người đang sử dụng Internet, với tỷ lệ 31% dân số.
Trong giai đoạn 2000 – 2010, tỷ lệ tăng tưởng người sử dụng internet tại Việt Nam đạt mức 12.035%. Theo đó, tỷ lệ người sử dụng Internet tại nước ta đang có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực.
Báo cáo này được thực hiện thông qua cuộc khảo sát hơn 3.400 người sử dụng internet tại 12 thành phố ở Việt Nam, và được triển khai trong tháng 11-12/2010, với phương pháp phỏng vấn qua điện thoại.
Tại Việt Nam, khoảng 62% người sử dụng truy cập Internet mỗi ngày, và trung bình mỗi ngày họ dành khoảng 2 giờ 20 phút trên internet. Ở những thành phố lớn, người dân truy cập Internet thường xuyên hơn so với thành phố nhỏ. Theo báo cáo, người dùng ở Hà Nội dành hơn 160 phút mỗi ngày để truy cập Internet, cao hơn so với TP.HCM (dành 150 phút mỗi ngày để truy cập Internet).
Hoạt động thường xuyên nhất khi truy cập Internet là đọc tin tức và sử dụng các công cụ tìm kiếm. Bên cạnh đó, Internet cũng thường được sử dụng để nghiên cứu trong học tập và phục vụ cho công việc. Các hoạt động như giải trí, giao tiếp cũng chiếm phần lớn hoạt động của người dùng Internet.
Tuy nhiên, chỉ có khoảng 40% người sử dụng Internet ở Việt Nam từng truy cập vào một website mua bán hay đấu giá trực tuyến, và chỉ có khoảng 10% từng sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Bản báo cáo còn cho biết, việc mua sắm trực tuyến được sử dụng thường xuyên hơn ở các thành phố phía Bắc và chủ yếu phổ biến ở nhóm tuổi từ 25 – 34.

Chia sẻ với bạn chân dung tỉ phú chân đất ở Khua Họ

Chỉ sau một năm, ông Nhịa đã có lãi. Không dừng ở đó, ông lại tiếp tục mở rộng khu chăn nuôi gà và nuôi thêm lợn thịt, bò. Cứ chỗ nào có đất hoang, ông lại lụi cụi vác cuốc cải tạo trồng nhãn, mận và tre. Thế rồi, tiếng lành đồn xa, sau 2 năm ông tiên phong xuống núi làm ăn hiệu quả, đã có hơn 20 hộ khác ở các bản vùng cao xuống núi định canh định cư ở bản Khua Họ. Bây giờ, Khua Họ đã có gần 30 hộ từ các bản vùng cao từ bỏ cuộc sống du canh, du cư để xuống núi học cách làm giàu của ông Nhịa.
Những việc lão nông Lầu Sáy Nhịa, ngoài 60 tuổi, bản Khua Họ, xã Huổi Một (Sông Mã, Sơn La) làm để trở thành tỉ phú thì chưa người Mông nào ở Sông Mã làm được. Ông là một người giỏi “kiếm tiền” từ trồng trọt, chăn nuôi, có uy tín trong cộng đồng và luôn tiên phong trong các việc khó...
Xuống núi làm tỉ phú...
Lão nông Lầu Sáy Nhịa đang tiếp tục mở rộng thêm khu chăn nuôi nhím (gấp đôi mô hình hiện tại)
Sau 30 phút đi xe máy từ trung tâm xã, chúng tôi có mặt tại bản Khua Họ. Đường tới tư gia của lão tỉ phú chân đất 100% được đổ bê tông và trên đường hỏi thăm không ai là không biết lão nông Lầu Sáy Nhịa.
Ngôi nhà gỗ lợp ngói của ông tỉ phú quả là hoành tráng, được ông thuê hẳn thợ dưới xuôi thiết kế và dựng theo đúng phong cách của dân tộc Mông. Xung quanh nhà là những gốc nhãn đang rộ hoa hay những gốc xoài, gốc mận đã cho thu hoạch nhiều năm nay. Cách nhà chừng 10m là khu chăn nuôi nhím, chăn nuôi lợn, bò... 60 tuổi nhưng trông ông vẫn vạm vỡ, chất giọng sang sảng.
Trong nhà ông có đầy đủ các vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt, nền nhà được lát gạch hoa sáng bóng. Nơi phòng khách treo đầy thành tích ghi nhận của các cấp. Tôi đếm cả thảy 20 chiếc bằng khen, giấy khen, trong đó có Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy chương vì giai cấp nông dân Việt Nam...
"Tôi là người Mông gốc ở bản Co Mạ A. Năm 1991, được Nhà nước tuyên truyền, vận động đã xuống núi để định canh, định cư. Ngày đó, cuộc sống của chúng tôi trên núi khổ lắm, quanh năm chỉ biết phá rừng làm nương. Cả bản không tìm nổi một hộ có mức sống trung bình. Ngày đó, nếu không xuống núi chắc không có cuộc sống ổn định như ngày hôm nay”. ông Nhịa bắt đầu câu chuyện.
Được biết ngày đó, ông Lầu Sáy Nhịa là người đầu tiên xuống núi. Ông cũng là người đầu tiên không phá rừng làm nương, không du canh, du cư. Được sự hướng dẫn, giúp đỡ của Nhà nước cộng với chút vốn tự có, ông Nhịa khai hoang đất chăn nuôi, trồng trọt. Việc đầu tiên ông làm là “học lỏm” cách trồng nhãn lấy quả của người Kinh và trồng ngô, khai hoang ruộng nước, nuôi gà.
Chỉ sau một năm, ông Nhịa đã có lãi. Không dừng ở đó, ông lại tiếp tục mở rộng khu chăn nuôi gà và nuôi thêm lợn thịt, bò. Cứ chỗ nào có đất hoang, ông lại lụi cụi vác cuốc cải tạo trồng nhãn, mận và tre. Thế rồi, tiếng lành đồn xa, sau 2 năm ông tiên phong xuống núi làm ăn hiệu quả, đã có hơn 20 hộ khác ở các bản vùng cao xuống núi định canh định cư ở bản Khua Họ. Bây giờ, Khua Họ đã có gần 30 hộ từ các bản vùng cao từ bỏ cuộc sống du canh, du cư để xuống núi học cách làm giàu của ông Nhịa.
Hiện tại, ông đang sở hữu mô hình trồng trọt, chăn nuôi trị giá hàng tỉ đồng. Trong đó, có 3,5 ha để trồng 250 gốc nhãn, 30 gốc mận, 20 gốc xoài và tre lấy măng, lấy cây; chăn nuôi hàng chục con lợn thịt, hàng trăm con gà đẻ, gà thịt, 700m2 ao thả cá, nuôi 40 con nhím. Mặc dù, trước đó ông đã bán bò để mua xe tải trị giá gần 400 triệu đồng nhưng khu chăn nuôi của ông vẫn còn 12 con bò. Ngoài ra, ông còn khai hoang 8 ha đất trồng ngô lai với gần 35 tấn hạt/năm; trồng gần 2 ha sắn để phục vụ chăn nuôi, khai hoang thêm 2 ha ruộng nước... mỗi năm ông nông Lầu Sáy Nhịa thu lãi 250 triệu đồng và cũng là người Mông duy nhất của huyện Sông Mã có thu nhập cao như vậy.
... Và làm nhiều việc khó
Thời điểm ông tiên phong xuống núi trong bản có khá nhiều trẻ em không được đi học, nhất là các em nữ. Bởi nhiều người còn quan niệm “học chữ không làm ra gạo, ngô, sắn”, “chỉ con trai mới được đi học chữ”. Khi đó, lớp học ở bản lụp xụp, cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học thiếu thốn đủ thứ...
Ông Nhịa đã đóng góp công, vật liệu để xây dựng trường lớp. Không kể ngày hay đêm, ông đến từng nhà vận động mọi người góp công, góp vật liệu dựng lớp học cho con em. Trong quá trình đi kêu gọi, ông Nhịa còn kiêm luôn cả việc tuyên truyền, giải thích cho mọi người lợi ích của việc cho con đi học chữ để xóa đói nghèo.
Thế rồi, một lớp học bằng gỗ rộng 4 gian đã được hoàn thành với sự đóng góp của cả bản. Theo đó, bất kể trẻ em là nam hay nữ đều được đến lớp học chữ. Và sau 20 năm xuống núi định canh, định cư, các hộ ở bản Khua Họ đã có nhiều thế hệ con, cháu được đến trường, được học chữ, nhiều người có bằng đại học, đang công tác tại các ngành khác nhau từ huyện đến xã, bản, trong đó gia đình ông Nhịa có 2 con trai, 1 con dâu đang công tác ở huyện Sốp Cộp và Sông Mã.
Trong câu chuyện kể về lão nông Lầu Sáy Nhịa, tôi còn được nghe kể rất nhiều đóng góp của ông khi cùng xã, bản thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động đồng bào mình không phá rừng làm nương rẫy; không tái trồng cây thuốc phiện; không nghe theo lời kẻ xấu; không du canh, du cư hay tuyên truyền những điều trái pháp luật. Cưới xin, ma chay cũng được người dân Khua Họ thực hiện theo nếp sống văn hóa mới. Đặc biệt, ông còn giúp không giống cây trồng, con nuôi cho 5 hộ nghèo trong bản, 3 hộ đã thoát nghèo từ sự giúp đỡ của ông...
Được biết, toàn bộ con đường bê tông hóa chạy quanh bản Khua Họ hay chạy tới tận cổng nhà của các hộ ở Khua Họ cũng là nhờ sự nhiệt tình, nhanh nhạy của ông khi xin được sự hỗ trợ của chương trình 925. Khi đó, ông lại tiếp tục một lần nữa phát huy tốt khả năng dân vận của mình để thu hút sự tham gia đóng góp của bà con hoàn thành việc bê tông hóa đường của bản.
Trước khi chúng tôi chia tay, ông Nhịa bộc bạch: Từ bao đời nay, người Mông có thói quen sinh sống ở những đỉnh núi cao, thiếu thốn đủ bề mà điều kiện tiếp xúc với văn minh cũng không có nhiều. Nếu không có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với các nguồn vốn, giúp đồng bào dân tộc sinh sống trên các triền núi cao xuống vùng thấp để định canh, định cư thì làm sao chúng tôi có cuộc sống ổn định như ngày hôm nay. Thực tế cho thấy những hộ hạ sơn hầu hết đều có điều kiện để phát triển kinh tế, được giao lưu về văn hoá với các dân tộc khác, tiếp cận với khoa học kỹ thuật và có cuộc sống tốt hơn. Chúng tôi ơn Đảng nhiều lắm....

Cùng tìm hiểu câu chuyện: Lối nào cho doanh nghiệp

“Virus lãi suất” đang bóp chết nhiều DN sản xuất. Ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, đưa ra một thông tin: tổng kết quý I, Hội đã không còn liên lạc được với 10 DN hội viên, tức là các DN này đã “chết” . Có ba DN liên lạc với Hội với mong muốn giúp bán công ty. Còn các DN khác, tình hình cũng chẳng sáng sủa gì.
Bất cứ DN nào lúc này cũng than về vốn và lãi suất. Lãi suất ngân hàng quá cao đã không những tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của từng DN, mà bản thân các ngân hàng cũng không phải không gặp khó.
Mất phương hướng
Công ty CP Cecico 579 là một DN đầu tư, kinh doanh bất động sản (BĐS) có tiếng tại Đà Nẵng, thế nhưng, Chủ tịch HĐQT, ông Đàm Quang Tuấn, cũng phải thốt lên:
“Hầu như các van bơm vốn cho DN, nhà đầu tư thứ cấp đều bị khóa. Nếu tiếp tục tình trạng này, 6 tháng đến một năm nữa, không hiểu nhà kinh doanh BĐS sẽ đi về đâu?”.
Ông Tuấn cho biết, đang diễn ra hiện tượng nhiều DN, cả lớn lẫn nhỏ đang bán tháo dự án để tự cứu mình. Việc bán tháo dự án sẽ giúp cho hai đối tượng được hưởng lợi: nhà đầu tư nước ngoài sẽ mua vào mạnh, và ngân hàng sẽ chiếm giữ những dự án đình trệ.
Chính sự mất cạnh tranh giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài sẽ hình thành nên một nhóm quyền lực trong ngành BĐS. Theo ông Tuấn, giá thành xây dựng bình quân hiện nằm ở mức 14 - 15 triệu đồng/m2, nhưng không ít DN phải bán dưới giá, thậm chí còn không bán được.
Làm hàng dệt may xuất khẩu, ông Phan Đức Chiến, Giám đốc Công ty TNHH TM DV SX Đức Hoàng, phải chịu cả hai nỗi khổ: lãi xuất và ngoại tệ.
Ông cho rằng, lãi suất ngân hàng cao, khổ đã đành, nhưng với tình cảnh cứ một tháng thay đổi mức lãi suất một lần, khiến DN không thể chủ động kinh doanh. Mà nếu không vay nữa, buộc lòng Công ty phải đóng cửa.
Chưa kể, mấy ngày nay tín dụng càng siết, nhiều khoản vay của Công ty bị thu hẹp, thậm chí không được vay nữa. Trong khi đó, là DN xuất khẩu, đáng lẽ ông Chiến phải được hưởng lợi về tỷ giá ngoại tệ.
Ông Chiến cho biết, khi thu được ngoại tệ từ xuất khẩu, đem vào gửi ngân hàng, lãi suất chỉ là 1%. Thế nhưng, đến khi cần ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, Công ty phải trả ngân hàng tới 7%.
Sản xuất khó khăn, DN phải đối mặt thêm với một mối nguy khác là sự sụt giảm của thị trường.
Ông Trần Việt Tiến, Giám đốc Công ty CP Mỹ thuật Gia Long, DN chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu bằng nhựa, cho biết, từ năm 2010, nhận thấy nhu cầu thị trường nội địa, nên vào quý IV, Công ty dự định mở thêm một xưởng mới.
Nhưng từ đầu năm 2011, khi mức giá tăng trung bình 10%, đặt hàng của các đại lý giảm nhiều. Nguyên nhân là nhiều gia đình tạm hoãn mua sản phẩm chưa thật sự thiết yếu trong thời điểm này. Trong khi đó, mảng xuất khẩu cũng không có sự tăng trưởng tốt.
Cụ thể, ông Tiến đã đi tìm hiểu tại hội chợ Singapore và Hồng Kông, nhưng nguồn cầu không tốt, đặc biệt là ở Singapore cực kỳ thấp. Nhận được tín hiệu này, ông Tiến quyết định hoãn xây xưởng.
Lây lan
Sự khó khăn chung của các DN, theo nhận định của ông Hoàng Phồn Quân, Giám đốc Công ty Hoàng Hưng, đang giống như căn bệnh lây lan.
Biểu hiện rõ nhất là mức giao thương đang rất kém, bởi ngay các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào và khách hàng đều là những đối tượng có... “bệnh”, sinh ra “truyền nhiễm” cho nhau.
Ông Quân cho biết, vừa rồi ông có một dự án lớn, nhưng phía đối tác phải rút vì ngân hàng bóp nghẹt vốn vay. Chính bản thân công ty của ông cũng đang phải chịu mức lãi suất 24%/năm.
“Năm trước lãi suất vay của tôi là 10%, nếu vay để làm dự án ngay thì khoảng 15%, nay thì mức lãi suất đã lên tới hơn 20%. Một bạn hàng Hàn Quốc của tôi thắc mắc, với lãi suất 20% thì làm sao có lãi? Bởi bản thân DN này chỉ chịu mức lãi suất 4% cũng đã gặp khó”, ông Quân bộc bạch.
Và vị giám đốc này rất thẳng thắn khi cho rằng, DN của ông đã đóng góp một phần vào kết quả lãi trong năm của ngân hàng, thậm chí ngân hàng đã... ăn cả vào vốn của công ty.
“Virus lãi suất” đang bóp chết nhiều DN sản xuất. Ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, đưa ra một thông tin: tổng kết quý I, Hội đã không còn liên lạc được với 10 DN hội viên, tức là các DN này đã “chết” . Có ba DN liên lạc với Hội với mong muốn giúp bán công ty. Còn các DN khác, tình hình cũng chẳng sáng sủa gì.
Đích thân ông Hạnh khảo sát ba DN có quy mô khác nhau. Doanh nghiệp thứ nhất có mức doanh thu 117 triệu USD nhưng tổng kết lại, cả năm, hàng mấy ngàn con người làm việc nơi đây chỉ thu về mức lời 2%/năm.
DN thứ hai có doanh thu 11 triệu USD, khi Chính phủ điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ, may mắn hưởng lợi bất ngờ, nhưng cũng chỉ chốt lời ở mức 2,5%. DN thứ ba có doanh thu 20 triệu USD, vốn không có quy mô lớn, cũng chẳng hưởng lợi từ tỷ giá ngoại tệ, kết quả là... lãi âm. 
Ngân hàng đành làm... Chí Phèo
Chuyên gia Đinh Thế Hiển
Một đại diện của Ngân hàng khá bức xúc khi nhiều DN cho rằng các ngân hàng là thủ phạm lấy hết lợi nhuận, thậm chí ăn cả vốn của DN. Vị lãnh đạo này chốt lại một câu: “Chẳng lẽ tôi phải xin thề là ngân hàng bị oan!”.
“Chúng tôi muốn huy động 15% cũng không được, cứ nhất thiết phải là 14%, mà khách hàng gửi tiền lại luôn muốn hưởng lãi suất cao hơn. Nếu cố vượt rào, thì hậu quả là không ít lãnh đạo bị mất chức.
Tôi nói đùa muốn làm người mà không được, đành phải làm Chí Phèo, cứ phải liều để đảm bảo kinh doanh”, vị đại diện xin được giấu tên này ví von.
Đại diện một ngân hàng khác, cũng xin giấu tên, không đồng tình với nhận định “chỉ DN lỗ, còn ngân hàng có lãi”, nhất là so mức lãi đó với vốn điều lệ.
Vị đại diện này cho rằng, mức vốn tối thiểu để ngân hàng được hoạt động là 3.000 tỷ đồng. Vậy cứ nhân 3.000 tỷ đồng với lãi suất huy động tiết kiệm là 18-20%, thì ngân hàng không hoạt động sẽ có lãi hơn là hoạt động.
Với số vốn cổ đông bỏ vào như thế, nhân với lãi suất tiết kiệm, đáng lẽ cổ đông lấy lãi cao hơn mức lãi mà ngân hàng công bố.
Góp phần minh oan, ông Đinh Thế Hiển, thành viên Ủy ban Chiến lược Ngân hàng Eximbank, cho rằng, trong quý I, xét trên 8 ngân hàng niêm yết, đúng là lợi nhuận tăng, nhưng là trong thời kỳ bất ổn, mặt chênh lêch giữa huy động và cho vay tăng lên để bù đắp rủi ro.
Ví dụ, thời kỳ ổn định, huy động 8%, cho vay 10,5%. Thời kỳ bất ổn, huy động 16%, cho vay 22%, thậm chí cho vay tiêu dùng lên tới 25%. Các ngân hàng niêm yết, khi báo cáo lợi nhuận, đều đưa hết vào lợi nhuận sau thuế mà không đưa vào phần dự phòng rủi ro.
Ông Hiển cũng nhận định, đến đầu tháng 6 này, đã thấy dấu hiệu lãi suất hạ nhiệt. Cách đây một tháng, 1 tỷ đồng gửi ngân hàng, lãi suất 20%, nay gửi 3 tháng là 18%, 6 tháng chỉ 16% và một năm là 15%. Như vậy, về huy động, lãi suất ngân hàng đã giảm, 3 tháng nữa sẽ hạ nhiệt.

Chia sẻ vấn đề: Tìm lời giải

Chính trong lúc lạm phát như hiện nay, thì tình trạng giảm phát đang hiển hiện rõ hơn. TS. Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng, giá chi phí đầu vào của DN rất cao đã tác động đến đầu ra, dẫn đến giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ tăng 14,2% so với cùng kỳ 2010, trong khi GDP trong lĩnh vực này chỉ tăng 6,6%.
Đầu tư công - nguyên nhân của nguyên nhân
Ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ
Không bàn nhiều đến tác nhân ngân hàng, chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn có cái nhìn mở rộng. Ông cho rằng, Việt Nam đang cùng lúc phải đón nhận hai thực tế: lạm phát và giảm phát.
Hiện các quốc gia khác cũng có lạm phát, nhưng mức độ của họ thấp hơn nhiều so với Việt Nam. Trong nhiều năm, đầu tư công cũng như ngân sách của Việt Nam chiếm trên 5% GDP, có lúc lên tới 7 - 8% GDP. Đây chính là nguyên nhân tiên phong gây ra lạm phát.
Khi đầu tư công không hiệu quả, thì lượng tiền khổng lồ đó sinh ra làm mất cân đối với lượng hàng hóa. Trong thời gian dài như vậy, áp lực của đầu tư công về lạm phát là rất lớn.
Ông Sơn lý giải thêm, ngay khi lúc ban hành NQ 11 cũng là lúc Chính phủ đưa ra chính sách điều chỉnh giá xăng dầu, điện, đã tạo ra một sự tăng giá, chứ không phải hoàn toàn do tác động từ tăng trưởng tín dụng quá nhiều. Đây là sự tăng giá theo thị trường.
Cộng vào đó, một thời gian khá dài, tín dụng dồn cho BĐS và chứng khoán cũng đã tạo ra áp lực mất giá đồng tiền. Sự gia tăng thu nhập của nhà đầu tư hai ngành này là do sự chênh lệch giá, tức là sự gia tăng giá trị của vật chất không nhiều, nhưng chênh lệch giá rất lớn, tạo ra sự gia tăng trên tổng cầu của nền kinh tế.
Chính trong lúc lạm phát như hiện nay, thì tình trạng giảm phát đang hiển hiện rõ hơn. TS. Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng, giá chi phí đầu vào của DN rất cao đã tác động đến đầu ra, dẫn đến giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ tăng 14,2% so với cùng kỳ 2010, trong khi GDP trong lĩnh vực này chỉ tăng 6,6%.
Cộng vào đó, thị trường tiêu thụ khó từ khâu đầu, giữa, đến khâu cuối. Biểu hiện cao nhất là tồn kho quốc gia cao, tới 14,6% so với 2010, có ngành rất cao, như ngành gỗ tồn kho tới 45,6%, đồ uống không cồn 49,5%, cáp điện và dây điện 79%...
Tổng doanh số bán lẻ, tốc độ tăng kém, chỉ 7,5%. Điều này cũng dễ hiểu, bởi người dân đang dùng 60% thu nhập cho lương thực, thực phẩm, 40% còn lại là dùng cho mặt hàng thiết yếu.
TS. Đinh Thế Hiển cũng đồng tình lý giải đầu tư công gây lạm phát. Ông cho rằng, chỉ số CPI tăng là do tiền - hàng không tương xứng. Chính phủ đã để đầu tư công tăng quá mạnh trong những năm qua, tương đương 17% GDP, trong khi một nước trong khu vực như Indonesia chỉ 12%.
Còn về hiệu quả từ tín dụng, trong khi Việt Nam bỏ ra 6 đồng tín dụng mới ra được 1 đồng GDP, thì Indonesia bỏ ra 2 đồng tín dụng thu về 1 đồng GDP. Năm nay, Chính phủ siết tín dụng dưới 20%, dư địa vẫn là 3,5 đồng tín dụng cho ra 1 đồng GDP, tức vẫn cao gấp đôi khu vực.
Siết có chọn lọc
Cách đây hai tuần lễ, ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, ra Hà Nội dự một diễn đàn doanh nghiệp. Tại đây, ông Hạnh đã trao đổi với Phó thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, và đề nghị NHNN siết chặt tín dụng nhưng cũng có mức độ, đừng có cào bằng.
Ông Phó thống đốc cho rằng DN các anh muốn đầu tư thì phải có 40% vốn, huy động 30% vốn xã hội, còn lại vay vốn ngân hàng. Với mức khống chế lãi suất 17-18%/năm, có cảm giác DN chịu đựng được.
Ông Hạnh trả lời: với cơ cấu bền vững, DN phải có 60% vốn, còn lại là đi vay. Nhưng với tình hình như lúc này, tỷ lệ đó đã đi ngược lại, đa số DN Việt Nam thuộc dạng vừa và nhỏ nên sức chịu đựng cũng có giới hạn. Vì vậy, NHNN siết có mức độ, vì nếu sau khi đã bình ổn nền kinh tế, sẽ có nhiều DN không tồn tại.
Vì vậy, Chính phủ phải nuôi dưỡng nguồn thu, tức là đóng thuế của DN, song song với biện pháp kiềm chế lạm phát, đặc biệt là các DN xuất khẩu, thì mới có ngoại tệ thu về để cân đối cán cân ngoại tệ. Còn cứ duy trì mức lãi suất 17-18%, thì NHNN đang mất kiểm soát, lãi suất đang tới mức 26-27%.
TS. Lê Thẩm Dương đưa ra quan điểm: lạm phát vẫn phải chống, nhưng không được bóp nghẹt DN. “Tôi đồng ý với quyết định tăng trưởng tín dụng không quá 20%, vì IMF còn khuyên Việt Nam đừng để tăng trưởng dưới 15%, nhưng chất lượng tăng như thế nào mới là quan trọng.
NHNN nên nắn dòng tiền cho các DN được ưu tiên, có dự án tốt. Thực tế, với hạn mức tăng trưởng 20%, các ngân hàng có tiền cho DN vay, nhưng chính vì không nắn dòng tiền đi đúng hướng, nên mới không hiệu quả”, TS. Thẩm Dương nhận định.
TS. Thẩm Dương cũng cho rằng, với quyết định tăng trưởng tín dụng dành cho phi sản xuất phải giảm xuống 22% trong cuối tháng 6 và 16% vào cuối năm, con số này mà giao đồng đều cho các ngân hàng thì không phù hợp.
Bởi có những ngân hàng cho vay bất động sản (BĐS) vào thời điểm đầu năm có khi lên tới 55% dư nợ, nay bắt duy trì mức vay 22% và 16% vào cuối năm thì là quá ép.
Do đó cần phải phân loại mức phần trăm cho từng ngân hàng. Ngoài ra, để hạn chế tín dụng BĐS, Chính phủ cần có những luật định chống đầu cơ. Một khi hạn chế được tình trạng đầư cơ BĐS, tín dụng BĐS cũng sẽ hạ nhiệt.
TS. Đinh Thế Hiển thì cho rằng, Chính phủ phải đưa vốn về cho sản xuất, không nên đưa tiền về các lĩnh vực đầu tư vốn dài, không tạo ra hàng hóa ngay.
Việc Chính phủ siết tín dụng BĐS là đúng, nhưng đồng thời phải chuyển dòng vốn ra cho tiêu dùng cá nhân và cho DN nhỏ và vừa. Thật ra ngân hàng cũng muốn cho các DN vừa và nhỏ vay, nhưng khó ở chỗ họ khó thẩm định được năng lực của DN.
Ông Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP.HCM: Phải “mổ” mới biết
- Theo tôi, thời gian qua, Chính phủ đã dùng quá nhiều biện pháp hành chính. Mối quan hệ giữa nhà nước với DN là mối quan hệ nhân quả, nếu dùng biện pháp hành chính nhiều quá sẽ phát sinh hậu quả lâu dài, làm rối quy luật kinh tế.
Dường như các biện pháp giải quyết khó khăn hiện nay mang tính “chống” nhiều hơn là “xây”. Trước hết, Chính phủ phải giải quyết được chuyện vốn và lãi suất cho DN. Chuyện này cũng giống như căn bệnh ung thư, phải mổ thì mới biết là thế nào.
Chuyên gia Huỳnh Bửu Sơn: Phải có biện pháp đi trước để tránh tình trạng xấu nhất
- Việt Nam phải đương đầu trước mắt với sự trì trệ khá đặc biệt. Trong tình hình lạm phát, hàng hóa bán tháo nhưng lại không có người mua. Sự trì trệ này diễn ra trong hoàn cảnh giá cả hàng hóa tiếp tục gia tăng.
Nếu ai đó nói rằng có biện pháp kéo giá xuống là điều không tưởng. Chúng ta tiếp tục phải chấp nhận mặt bằng giá này. Kỳ vọng tốt nhất trong tương lai chỉ là sự thay đổi mức giá sẽ là không nhiều. Ví dụ như giá xăng hiện 21.000 đồng/lít, hy vọng sắp tới giá chỉ tăng 21.200, hay 21.500 đồng/lít.
Nói đến lãi suất, chúng ta phải đặt ra câu hỏi liệu đây là con đường đi của NHNN hay là NHNN đi theo các ngân hàng thương mại? Rõ ràng hệ thống ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động trước khi NHNN điều chỉnh mức lãi suất cơ bản.
Ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động vì nhu cầu thanh khoản rất lớn, vì có sự bất động nguồn vốn rất lớn trong các lĩnh vực như BĐS. Đây không phải là một vấn đề nhỏ. Nếu không có giải pháp cho chuyện này, dù cho NHNN không hạn chế mức tăng trưởng tín dụng 20%, thì cũng không có ngân hàng nào đủ sức tăng trưởng ở mức đó.
Vì vậy, nếu không giải quyết được sự bất động nguồn vốn của ngân hàng, như BĐS, chứng khoán thế chấp, thì DN sẽ tiếp tục phải chịu đựng cảnh “uống thuốc độc để giải khát”, tức là tiếp tục duy trì các đồng vốn nằm trong ngân hàng, rồi các NH duy trì lãi suất cao như vậy, người gửi cứ tiếp tục gửi tiền vào, tạo ra sự cạnh tranh hút vốn của các ngân hàng.
Giả sử, kinh tế khó khăn, thất nghiệp, người gửi tiết kiệm buộc phải rút tiền đồng loạt, lúc đó các ngân hàng sẽ xoay xở ra sao? Phải có biện pháp đi trước để tránh tình trạng xấu nhất có thể xảy ra.
Chuyên gia Lương Văn Lý: Phải tạo điều kiện vốn cho một số ngành
Đầu tư công hiện vẫn là việc mà Chính phủ cần phải giải quyết triệt để. Hiện tổng mức nợ của 81 tập đoàn, công ty nhà nước tương đương 54,2% GDP, và khu vực này chiếm không dưới 60% tổng tín dụng nợ nội địa tăng lên của toàn nền kinh tế.
Riêng chuyện siết chặt tín dụng là đúng, nhưng phải phân cân, đừng có cào bằng. Phải tạo điều kiện vốn cho một số ngành như hạ tầng kỹ thuật, sản xuất công nghiệp phụ trợ... để phù hợp với bối cảnh nền kinh tế hiện nay.